Lời tâm tinh của một người mới trở về từ chốn lao tù

Lời tâm tinh của một người mới trở về từ chốn lao tù

 

CHÚA THỬ RÈN TÔI

“Hỡi anh em, hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn,

  vì biết rằng sự thử thách đức tin anh em sanh ra sự nhịn nhục.

Nhưng sự nhịn nhục phải làm trọn việc nó, hầu cho chính mình anh em cũng trọn lành toàn vẹn,

không thiếu thốn chút nào”.  (Giơ-cơ 1:2-4)

Tôi là mục sư Nguyễn Thị Hồng, nguyên là Quản nhiệm Hội Thánh Tin Lành Mennonite Bến Cát- Bình Dương.  Tôi cũng là Ủy viên tài chánh kiêm ủy viên giáo dục - thuộc giáo hội  Tin Lành Mennonite Việt Nam.  Tôi mới được trở về từ chốn lao tù (lúc 13 giờ ngày 17/06/2010).  Qua kinh nghiệm theo Chúa và nhất là kinh nghiệm lao tù, tôi có đồng tâm tình như người tín hữu xưa mà công bố như ông Gióp rằng: “Nhưng Chúa biết con đường tôi đi. Khi Ngài đã thử rèn tôi.  Tôi sẽ ra như vàng” (Gióp 23:10).  Người theo Chúa có khi được hanh thông, có khi gặp khó khăn hoạn nạn, nhưng tất cả nằm trong sự tể trị tuyệt đối, khôn ngoan của Chúa. Mỗi một ngày, mỗi một giờ, và mỗi một phút- giây,  là mỗi một kinh nghiệm như món quà của sự yêu thương của Chúa trao tặng cho con dân Ngài.   

 

Ms Hồng dự sinh nhật con Ms Quang 09/07/2010 (sau khi ra tù)

(bé An-ne và Quang Triệu con Ms Quang bên tay trái Ms Hồng, con trai và con thuộc linh Ms Hồng làm chứng trong tù bên tay phải)

 

 

Tôi sinh ra đời trong một gia đình tương đối khá giả và được nhiều người biết đến trong thành phố cổ nhỏ bé Hội An. Ba tôi mồ côi cha mẹ từ nhỏ, và ông được một vị linh mục nuôi nấng và dạy dỗ. Cho nên khi lớn lên ông rất biết ơn Chúa và ông bày tỏ lòng biết ơn bằng cách tích cực làm công tác Tông đồ (truyền giáo).  Chúa cũng đã ban phước dư dật cho ông nên ông đã thực hiện mạng lệnh truyền giáo theo cách riêng của mình. Ba tôi kêu gọi bà con nội ngoại tin theo Chúa, và ai tin Chúa thì mỗi tháng sẽ được ông cấp tiền để giúp con ăn học. Với sự khuyến khích ấy, bà con cả hai dòng họ nội ngoại của tôi đều tin Chúa theo đạo Công Giáo.  Ba tôi cũng có ý nguyện sẽ dâng cho Chúa một người con để hầu việc Ngài. Ông đã cho người anh trai của tôi đi vào tiểu chủng viện khi còn nhỏ. Nhưng rất tiếc, anh tôi không được ơn kêu gọi, cho nên sau khi học được sau ba năm thì anh phải rời trường vì không tuân giữ được nội quy của trường.  Cha tôi quyết thực hiện sự hứa nguyện với Chúa, nên sau khi anh tôi rời chủng viện thì ông kêu gọi người chị tôi bước vào dòng tu sĩ.  Khi chị sắp trở thành Souer thì xảy ra biến cố 30/4/1975 lại đến.  Chị được dòng tu cho về nhà chờ đợi khi nào tình hình ổn định xong sẽ trở lại nhà dòng.  Nhưng chị tôi không thắng được tình yêu nên đã lấy chồng.  Tôi không ngờ người được Chúa chọn để hầu việc Ngài lại là tôi. .  Thật, “Tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự ban cho của Ngài không kể xiết” (2 Cor 9:15).   Tôi vẫn tự nói với mình rằng:“Tôi là một con vịt xấu xí trong bầy thiên nga” (các chị tôi rất xinh đẹp).  Và hơn nữa cuộc đời tôi thật lắm gian truân – đúng là ba chìm bảy nổi chín lênh đênh thì làm sao trở nên người hầu việc Đức Chúa Trời được! Nhưng Ấy là sự mắt chưa thấy, tai chưa nghe, và lòng người chưa nghĩ đến.  Nhưng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn điều ấy cho những người yêu mến Ngài” . (2 Cor 2:9).  

Khi bước chân vào đời, tôi đã được Chúa cho những cơ hội rất thuận lợi.  Vừa mới tốt nghiệp trường xây dựng, tôi đã tiếp nhận một tổ hợp xây dựng và giữ chức quản nhiệm.  Nhờ ơn Chúa cho tôi đã thành công trong công việc làm ăn và có ít nhiều tiếng tăm tốt trên thương trường.  Nhờ đó tôi có được khả năng để giúp đỡ một số người thân và bạn bè trong cơn hoạn nạn.  Tôi cũng đã sống thật hạnh phúc thật với tình thương trong mái ấm gia đình.

Nhưng rồi một ngày kia, Chúa đã cất đi hết những gì tôi có. Thật giống trường hợp một tín hữu tên Gióp được ghi nhận trong Kinh Thánh Cựu Ước.  Người thân trong nhà rồi đến của cải, tài sản, lần lượt ra đi. Chồng tôi đã qua đời vì tai nạn.  Công việc làm ăn thì mỗi ngày một xuống dốc. Trong một phi vụ xuất nhập khẩu nhằm lúc điểm khủng hoảng kinh tế,  công ty tôi đã phá sản và tôi phải mang một số nợ khổng lồ. Tôi bán hết gia sản nhưng không giải quyết được nợ nần. Bị các con nợ vây quanh tôi sợ hãi nên phải bỏ trốn. Lúc ấy gia đình và bạn bè đều quay lưng lại với tôi. Họ bỏ mặc, không ai ra tay cứu tôi. Trong tuyệt vọng, tôi đã oán trách Chúa, và muốn đi tìm cái chết để giải thoát chính mình khỏi các trách nhiệm và khỏi nỗi đớn đau quá lớn tôi không thể chịu đựng nổi. 

(Mục sư Nguyễn Thị Hồng những ngày đầu tiên sinh hoạt với HT Mennonite VN)

 

Cảm ơn Chúa. Ngài vẫn yêu tôi và Ngài đã giải cứu tôi từ trong trũng bóng chết. Lúc ấy tôi gặp được một chị em trong Hội thánh Tin lành Mennonite. Người chị em ấy đã yêu thương an ủi, giúp đỡ tôi và dẫn tôi trở về với Chúa. Tôi không hề quên được giây phút biến thiên và được tan vỡ trước mặt Chúa.  Tôi quyết định trở lại theo Chúa và dâng cuộc đời mình để hầu việc Ngài. Cuộc đời tôi dần dần được đổi mới.  “Vậy, nên chúng ta chẳng ngã lòng dầu bề ngoài hư nát nhưng người bề trong cứ đổi mới càng ngày càng hơn (II Cor 4:16).  Chúa đã trải thảm hoa dưới chân để cho tôi đến với Ngài khi tôi hết lòng tìm kiếm Ngài. Tôi đã từ bỏ mọi con đường để tìm kiếm sự vinh hoa và của cả đời này để hiến thân làm đầy tớ Đức Chúa Trời.  Tôi cảm tạ Chúa về tấm lòng của Hội thánh Tin lành Mennonite Vĩnh-cữu.  Một Hội thánh Tin lành Mennonite xa xôi ấy tuy rất nghèo, nhưng cũng đã cung ứng cho tôi một số phụ cấp, dầu ít ỏi, để tôi có hầu việc Chúa và học Lời Chúa. Tôi đã hoàn tất những chương trình Kinh Thánh như SOW , CALVAREY, BÊ RÍT XIN, BEE, Cao học mục vụ. Một niềm hạnh phúc thật lớn lao đã đến với tôi khi tôi được sắc phong chức vụ mục sư chính thức trong Giáo Hội Tin lành Mennonite Việt Nam. Tuy nhiên điều này lại khiến nhà nước không có thiện cảm với tôi vì Hội Thánh Tin lành Mennonite là một điểm nóng thời bấy giờ.

 

(Tham gia và huấn luyện Hướng Đạo Cơ-đốc thuộc HT Mennonite năm 2002)

 

Hội Thánh do tôi quản nhiệm là một nhóm cộng đồng Cơ-đốc nhân đặc thù khá đặc biệt bởi tín hữu toàn những con người là công nhân làm việc tại khu công nghiệp Mỹ Phước II , III, IV…- Bến Cát. Từ năm 2004 đến khi bị bắt, tôi đã dự phần tổ chức được trên 5 đợt truyền giảng cho công nhân và dẫn đưa gần 2000 người về với Chúa Giê-Su. Khi phục vụ các tín hữu công nhân, tôi cũng được các cơ quan nước ngoài liên hệ. Đây là những cơ quan có mối quan tâm đến đời sống cơ cực của công nhân. Các cơ quan ấy đã nhờ tôi viết một cẩm nang đơn giản cho công nhân để họ biết tự bảo vệ mình.  Chúng tôi tạo ra một ngôi nhà gọi là nhà BILL để cùng nhau giúp đỡ cho công nhân (chứ không phải là một tổ chức phản gián như báo An Ninh Thế Giới đã đăng, số 717, thứ bảy ngày 22/12/2007, lúc 17:19:00 ( báo điện tử, thứ hai 07/01/2008) và báo Lao Động số 299 ngày 24/12/2007,  lúc 8: 21 AM,  Trần Quang ).  Tôi có tải nhiều thông tin trên mạng có liên quan đến công nhân, vì tôi thật sự muốn quan tâm và muốn hiểu sâu sắc hơn về công nhân.  Một hôm, có trong các cơ quan nhờ tôi chăm sóc một người bệnh rồi giúp đưa người ấy qua Campuchia.  Tôi nhiệt tình giúp đỡ, nhưng không ngờ người đó là một lãnh đạo cao cấp của Đảng Việt Tân (người mà sau này tôi mới biết là một đối tượng mà công an muốn truy bắt). Người ấy nhận tôi làm em kết nghĩa và có chuyện trò với tôi qua mạng.  Sau đó, anh có gửi cho tôi môt tờ bướm nói về Đấu Tranh Bất Bạo Động. Tôi thấy tài liệu hay nên định in thêm vài bản để tặng cho những người thân.  Tôi bị bắt quả tang khi mới in tờ thứ nhất của tài liệu này.

Vào năm 2007, có vụ khiếu kiện của dân oan tại số 194 Hoàng Văn Thụ. Tôi thấy có nhiều người quan tâm đến hoàn cảnh của người dân. Bên Phật giáo có thượng tọa Thích Quảng Độ đã đến giúp đỡ. Các tôn giáo khác cũng đến chia sẻ khó khăn và an ủi dân oan. Có nhiều người quyên góp tiền bạc và nhờ tôi đi mua thức ăn và nước uống đến tặng cho dân khiếu kiện. Tôi nghĩ đây là một việc làm tốt nên tôi nhận lời giúp đỡ.

(Truyền giáo cho hàng trăm người ở KCN Mỹ Phước-Bến Cát)

Tất cả những sự kiện trên đã đưa tôi vào vòng quan tâm đặc biệt của các cơ quan an ninh mà tôi không hề hay biết . Cuối cùng cơ quan an ninh tổng hợp tất cả các dữ kiện và quyết định bắt tôi.  Sau quá trình điều tra giam giữ, họ đã không buộc tội tôi về những tội danh liên quan đến chính trị và tôn giáo, mà lại phạt giam tôi 3 năm về tội lạm dụng tín nhiệm tài sản. Trong khi đó tôi đã khắc phục hoàn toàn hậu quả trước ngày xét xử và nhận được sự bãi nại của chủ nợ trước phiên tòa.

Dầu sao đi nữa, tôi cũng thỏa lòng với bản án, và không chống án vì tôi tin là Chúa có một chương trình cho tôi trong chốn lao tù. Chúa đã cho tôi thức tỉnh, và quyết định xem như cuộc đời mình đã chấm dứt từ đây. Tôi nhờ ơn Chúa gạt bỏ mọi lo lắng về thế gian, và chú tâm thực thi công việc của Đức Chúa Trời, ấy là mang tình yêu thương của Giê-su đến với những người mà tôi sẽ gặp gỡ trong lao tù. Chúa cho trong thời gian bị tạm giam ở Chí Hòa, tôi đã cố gắng nhờ ơn Chúa để không bỏ sót một linh hồn mà Chúa đem đến cho tôi để tôi giúp họ gặp Ngài. Cảm ơn Chúa đã ở cùng, vùa giúp và đã giải cứu tôi qua khỏi các gian truân khi tôi thi hành đại mạng lệnh của Ngài. Ngay giữa cảnh khó khăn, Chúa vẫn lặng lẽ hành động . “Ôi! sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được! Vì, ai biết ý tưởng Chúa, ai là kẻ bàn luận của Ngài? Hay là ai đã cho Chúa trước, đặng nhận lấy điều gì Ngài báo lại? Vì muôn vật đều là từ Ngài, bởi Ngài, và hướng về Ngài. Vinh hiển cho Ngài đời đời vô cùng! A-men”.(Rom 11:33-36).  

 

(Ms Nguyễn Thị Hồng những ngày học thần học tại Cam-pu-chia)

 

Tôi lớn tiếng ngời khen đức Chúa Trời và dâng lời cảm ơn Chúa vì trong trại giam, tôi đã được ban giám thị của trại đối xử tử tế và tôn trọng hơn khi họ biết tôi là một mục sư. Những tháng năm bị giam cầm này tôi đã thật sự kinh nghiệm được đồng cỏ xanh tươi và mé nước bình tịnh, giống như những tôi tớ Chúa khác đã từng kinh nghiệm khi họ bị bắt bớ. Chúa cũng đã xức dầu cho chức vụ của tôi. Ngài đã nhậm lời tôi khi tôi cầu nguyện cho những người bệnh. Mỗi ngày Chúa cho có những người bị bệnh lặng lẽ, âm thầm đến xin tôi cầu nguyện để được Chúa chữa lành. Những người này cũng đã sẵn sàng tiếp nhận Chúa Giê-su là Cứu Chúa và là Đấng làm chủ cuộc đời mình.  Tôi đã ba lần tôi kiêng ăn 40 ngày để xin Chúa cho tôi làm ống dẫn tình yêu và năng quyền chữa lành của Ngài đến các chị em đồng tù.   Ánh sáng Phúc âm đã cháy lên, sáng lên,  trở nên vì sao sáng cho những tù nhân - Hội thánh Chúa âm thầm đã mọc lên trong năng quyền Chúa Thánh Linh, và ngày ngày có những chị em quay quanh tôi để cùng thờ phượng Chúa, hát thánh ca và cầu nguyện. Ban giám thị trại giam thấy lúc nào cũng có những người bệnh, người mồ côi cần sự an ủi bao quanh tôi, nên họ ủng hộ công việc của tôi. Chúa đã cho tôi được gặp gỡ một vị cán bộ coi sóc trại giam là người đã đối xử với phạm nhân bằng chữ TÂM và chữ YÊU. Nhưng sau đó ông lại được lệnh chuyển đi đến nơi khác. Tôi rất ngỡ ngàng vì sự ra đi của ông, nhưng Chúa đã an ủi khi tôi nghe câu của người cán bộ này nói với các phạm nhân trong buổi chào cờ sáng thứ hai:“Trong suốt thời gian làm công an trại giam, chị Hồng là người gây cho tôi ấn tượng sâu sắc nhất. Mỗi lần tiếp xúc với chị là tôi được học thêm một điều mới....” Tôi là ai mà Chúa cho tôi lời khen tặng này. Khi ra đi, vị cán bộ trên đã gởi gắm tôi cho một vị cán bộ khác trong trại. Vị này đã lặng lẽ giúp đỡ tôi bằng những việc làm cụ thể.

Cảm ơn Chúa vì Ngài đã sai thiên sứ bảo vệ cho tôi nên bản thân không bị ai xúc phạm hay gây chuyện. Bởi quyền năng siêu nhiên vô hình ấy, nhưng rất rõ nét giúp đỡ tôi được sống trong sự bình an và có thể chuyên tâm cầu nguyện. Sự xức dầu của Chúa đã tràn lan trên đời sống chức vụ của tôi khi tôi khao khát và hết lòng tìm kiếm Chúa. Chúa cho tôi đã cầu nguyện cho một người bị bại liệt, và Ngài đã đỡ người ấy đứng dậy mà đi. Điều tuyệt vời hơn nữa là những giai điệu Thánh linh đã bắt đầu xuất hiện khi tôi cầu nguyện bằng tiếng mới. Những ca khúc mới vang lên trong chốn lao tù mang đến sự giải cứu, chữa lành và đổi mới tâm linh cho nhiều người. Các chị em trong đức tin chúng tôi thường cầu nguyện và công bố: “Chúa sẽ giải cứu tôi trong năng quyền như Phao lô xưa kia

 

(Giáo Hội Mennonite phong chức (Mục sư) cho Mục sư Nguyễn Thị Hồng)

 

Chúa đã đáp lại sự trông đợi của chúng tôi. Ngài cho tôi đã trở về trước thời hạn 16 ngày.  Đối với người ngoại cuộc, sự việc này có thể suy diễn nhiều cách khác nhau.  Nhưng đối với chính tôi, đây là cách Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài để giúp các chị em của tôi trong chốn lao tù giữ vững đức tin của họ khi tôi không còn ở bên họ để an ủi, dạy dỗ và chăm sóc họ nữa.   Ngày tôi trở về “thịt và lòng tôi bị tiêu hao.  Nhưng Đức Chúa Trời là sức lực của lòng tôi.” (T.T 73: 26).   Lòng tôi lại hun đúc với khải tượng được xây dựng nhà Chúa ở Bến Cát.  Suốt thời gian bị giam giữ tôi đã cầu nguyện cho niềm mơ ước này.  Và, tôi cũng cầu nguyện Chúa mở đường cho tôi, mở một phân xưởng sản xuất để tạo công ăn việc làm cho những người mới ra tù, họ sẽ là những tín hữu của Hội thánh Chúa trong tương lai.  Đức Chúa Trời thật sự có những kế hoạch tốt hơn chúng ta, nhưng chúng ta không thể sống với những kế hoạch đó cho tới khi loại trừ được bãn ngã của mình.   Khi tôi cảm nhận tình yêu Thiên Chúa quá tuyệt vời đã chan chứa tràn ngập cho cuộc đời tôi và cho nhiều người khác điều ấy không còn là những lời nói mà nó trở nên lời ca chúc tụng Thiên Chúa của mọi Cơ-đốc nhân (Ca khúc đầu tiên tôi cảm tác lại vang vọng):

Và tôi sống , tôi sống nhưng không là tôi.

Mà Thiên Chúa đã sống trong tôi phục sinh.

Cuộc đời mới xa lánh ô dơ trần gian.

Và lòng tôi vang mãi khúc ca yêu đời.

Tình yêu thương-Thiên Chúa chính là nguồn căn.

Phàm ai yêu thì Chúa tái sinh đời ngay.

Người không yêu không biết Chúa Trời là cha.

Vì thật ra Thiên Chúa chính là tình yêu.”

 

(Mục sư Nguyễn Thị Hồng thông công với BĐH Giáo Hội sau khi ra tù) 

Tôi đã hoàn tất bài viết này sau 3 ngày kiêng ăn cầu nguyện. Những điều tôi trình bày nơi đây là sự thật mà các chị em phạm nhân cùng trại được trở về có thể xác nhận cho tôi. Quả thật Chúa đã thử rèn tôi. Tôi mong được mỗi ngày càng trở nên giống như vàng nhiều hơn (Gióp 23:10).

Mục sư Nguyễn Thị Hồng


 https://www.vietmenchurch.tk - Vietnamese Mennonite Church © 2010 All rights reserved.

Email: vietmenchurch09@gmail.com - Tel: (084) 8107163